HỆ SƠN BỘT LAI EPOXY VÀ POLYESTER
Một loại bột phủ trong nhà chủ yếu được tạo thành trên sự kết hợp epoxy và nhựa polyester nhóm chức axit. Nhựa epoxy đóng rắn bằng anhydrides có đặc tính tốt nhưng không được sản xuất thương mại nhiều. Hầu hết chất anhydrides gây vấn đề về hô hấp. Ngoài ra, chúng cũng nhạy ẩm và hoạt tính của bột phủ đóng rắn bằng anhydrides có sự đa dạng về cách thức bảo quản tùy theo độ ẩm môi trường và mức độ chuyển hóa từ anhydride sang axít. Về mặt tích cực, bột phủ đóng rắn bằng anhydride có khả năng kháng nhiệt và ổn định mầu tốt, trong khi các loại bột phủ đóng rắn bằng amine thì mất mầu nếu phơi nhiệt hoặc ở ngoài trời. Vì vậy, nhiều phòng thí nghiệm của các nhà sản xuất nhựa polyester đã phát triển nhựa có khả năng giữ các đặc tính tốt của anhydrides trong khi loại bỏ các đặc tính không tốt. Công việc này đã tạo ra dòng nhựa polyester no, mạnh khá thẳng nhóm chức a xít chuyên dùng để đóng rắn nhựa epoxy gốc bisphenol A. Đặc tính của hệ lai này tương tự như nhựa epoxy chỉ khác vài khía canh. Kháng sấy quá (kháng thay đổi màu sau khi đóng rắn) và kháng mất mầu khi phơi nắng rất tốt. Vì mật độ liên kết ngang của hệ bột phủ lai thường ít hơn hệ epoxy, bột phủ hệ lai đóng rắn kém hơn về khía cạnh kháng dung môi và độ cứng. Chúng cũng hơi kém hơn trong khía cạnh phun muối và kháng ăn Bột phủ hệ lai Epoxy–polyester thường tốt hơn so với bột phủ epoxy về độ giữ bóng khi phơi ngoài trời nhưng thường không nên sử dụng cho các ứng dụng ngoài trời. Các ứng dụng của bột phủ lai cũng giống như bột phủ trang trí epoxy.
HỆ SƠN BỘT POLYESTER ĐÓNG RẮN TGIC
Một loại bột phủ bền ngoài trời có gốc là nhựa polyester no, chức a xít và sử dụng chất đóng rắng triglycidylisocyanurate (TGIC). Hệ này được phát triển lần đầu tiên tại châu Âu vào thập kỷ 70. Nhựa polyester chức a xít sử dụng trong bột phủ đóng rắn bằng TGIC tương tự như nhựa trong hệ lai epoxy–polyester. Tuy nhiên, nhựa đóng rắn bằng TGIC có đương lượng cao hơn, thường trong khoảng 1600–1900 và có nhóm chức thấp hơn. Nhựa chức a xít thường được chuẩn bị thông qua quy trình 2 bước: phản ứng dư polyol và a xít dibasic, sau đó là este hóa nhựa đuôi hydroxyl sử dụng a xít hai ba zơ (dibasic acid) hoặc anhydrides. Kỹ thuật này tạo ra một loại nhựa có nhóm chức ở cuối phân tử, chứ không phải xảy ra ngẫu nhiên dọc dãy polymer. Độ bền ngoài trời tốt của nhựa polyester đóng rắn bằng TGIC xuất phát từ cấu trúc không thơm của TGIC, đối ngược với cấu trúc của nhựa epoxy gốc bisphenol A sử dụng trong hệ bột phủ lai polyester–epoxy. Thành phần Monomer của nhựa cũng đóng vai trò quan trọng. Người ta công nhận rằng độ bền ngoài trời của bột phủ polyester bị ảnh hưởng bởi các nhấn tố chứ không phải bởi sự kháng bức xạ cực tím. Sự tích lũy độ ẩm trên bề mặt của bột phủ đặc biệt khi tăng nhiệt (mầu sẫm hơn) và phơi chiếu ô xy sẽ dẫn tới quá trình thủy phân, ô xy hóa và mất chất của nhựa. Các nhân tố môi trường như mưa a xít hay kiềm phân chim cũng như nóng, lạnh chu kỳ cũng góp phần làm phá hủy phân tử và mất đi các đặc tính. Đối với những nguyên nhân trên, thí nghiệm tăng cường thời tiết thường gồm phơi theo chu kỳ trước sự gia nhiệt và độ ẩm cũng như tia cực tím.
Sự phát triển gần đây của cái gọi là polyesters siêu bền đã minh chứng cách thức thí nghiệm tăng cường thời tiết theo chu kỳ. Nhựa polyester siêu bền được dựa trên a xít isophthalic trong khi các nhựa tiêu chuẩn khác chứa a xít terphthalic. Nhựa polyesters siêu bền có tính kháng thủy phân và mất chất bằng tia cực tím, điều này giúp cho nó có tính bền ngoài trời rất tốt. So với bột phủ polyester đóng rắn bằng TGIC tiêu chuẩn và ở mầu thẫm, điều này làm mất đi khoảng 50% độ bóng ban đầu sau 2 năm phơi ngoài trời, nhựa polyester siêu bền đóng rắn bằng TGIC sẽ có tuổi thọ tối thiểu dài hơn 4 lần.. Nhựa polyesters siêu bền thường kém về tính linh hoạt và độ chịu va đập nhưng gần đây đã có bước tiến bộ lớn về khía cạnh này.
HỆ SƠN BỘT POLYESTER ĐÓNG RẮN HAA
Chất đóng rắn Hydroxyalkylamide được phát triển cuối thập kỷ 1970 và đầu thập kỷ 1980. Đầu năm 1991 mới được coi là chất đóng rắn trong bột phủ. Sản phẩm thương mại đầu tiên là bis(N,N- dihydroxyethyl) adipamide được bán dưới thương hiệu Primid XL 552 của nhà sản xuất EMS Chemie. Nó phản ứng với polyester chức a xít bằng cách éster hóa và khử nước. Liên kết ester được hình thành bằng Primid XL 552 và nhựa polyester có đặc tính cơ bản giống như liên kết TGIC–polyester. Thực tiễn đã xác nhận bột phủ polyester đóng rắn bằng Primid tương đương về độ bền thời tiết và các đặc tính khác so với bột đóng rắn bằng TGIC. Vì nhóm chức của chất đóng rắn hydroxyalkylamide khoảng 4, nhóm chức của polyester được sử dụng với chúng phải phù hợp.